Xuân Quỳnh, sinh ngày 6 tháng 10 năm 1942 tại quê: xã La Khê, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây. Bà xuất thân trong một gia đình công chức, mồ côi mẹ từ nhỏ, ở với bà nội.

Hình minh họa (Nguồn internet)

Thi sĩ Xuân Quỳnh tên khai sinh là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh. Bà được ví như một cành hoa tươi mọc tươi tốt trong cánh rừng bom đạn. Trong khi các nhà thơ khác đang mải mê sáng tác về tinh thần yêu nước và ngợi ca tinh thần chiến đấu anh hùng của dân tộc thì bà lại tìm cho mình một cảm hứng mới đó là nỗi niềm của sóng. Thơ Xuân Quỳnh giàu cảm xúc với nhiều cung bậc khác nhau, khi hạnh phúc đắm say, có lúc lại đau khổ, suy tư…
Xuân Quỳnh là một nữ thi sĩ nổi tiếng của thơ ca Việt Nam. Bà là tác giả của nhiều bài thơ tình nổi tiếng như: Thuyền và biển, Sóng, Hoa cỏ may, Tự hát, Nói cùng anh… Các tác phẩm thơ như “Sóng”, “Truyện cổ tích về loài người” của bà đã được đưa vào sách giáo khoa phổ thông để giảng dạy.

Năm 1973, Xuân Quỳnh kết hôn với nhà viết kịch, nhà thơ Lưu Quang Vũ, trước đó, Xuân Quỳnh kết hôn lần đầu tiên với một nhạc công của Đoàn Văn công nhân dân Trung ương và đã ly hôn. Từ năm 1978 đến lúc mất Xuân Quỳnh làm biên tập viên Nhà xuất bản Tác phẩm mới.

Xuân Quỳnh mất ngày 29 tháng 8 năm 1988 trong một tai nạn giao thông tại đầu cầu Phú Lương, thị xã Hải Dương (nay là thành phố), tỉnh Hải Dương cùng với chồng Lưu Quang Vũ và con trai Lưu Quỳnh Thơ mới 13 tuổi.

Xuân Quỳnh được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.

Xuân Quỳnh thời trẻ

Xuân Quỳnh được tuyển vào Đoàn Văn công nhân dân Trung ương và được đào tạo thành diễn viên múa. Bà đã nhiều lần đi biểu diễn ở nước ngoài và dự Đại hội thanh niên sinh viên thế giới năm 1959 tại Viena (Áo).
Xuân Quỳnh học Trường bồi dưỡng những người viết văn trẻ (khoá I) của Hội Nhà văn Việt Nam và tốt nghiệp năm 194. Sau khi học xong, làm việc tại báo Văn nghệ, báo Phụ nữ Việt nam.
Cuộc sống gia đình Xuân Quỳnh

Bà sinh ra trong một gia đình công chức, mẹ mất sớm, bố thường xuyên công tác xa gia đình, nên Xuân Quỳnh lớn lên nhờ bàn tay chăm sóc của bà.

Xuân Quỳnh kết hôn lần đầu tiên với một nhạc công của đoàn văn công nhân dân Trung ương và đã ly hôn.
Năm 1973, Xuân Quỳnh kết hôn với nhà viết kịch, nhà thơ Lưu Quang Vũ. Hai ông bà có người con trai út là Lưu Quỳnh Thơ. Nhưng hai vợ chồng và người con trai út này đã mất trong một tai nạn giao thông.

Các tác phẩm chính:

  • Tơ tằm – chồi biếc (thơ, in chung, Nhà xuất bản Văn học, 1963)
  • Hoa dọc chiến hào (thơ, in chung, 1968)
  • Gió Lào, cát trắng (thơ, 1974)
  • Lời ru trên mặt đất (thơ, 1978)
  • Sân ga chiều em đi (thơ, 1984)
  • Tự hát (thơ, 1984)
  • Hoa cỏ may (thơ, 1989)
  • Thơ Xuân Quỳnh (1992, 1994)
  • Thơ tình Xuân Quỳnh – Lưu Quang Vũ (1994)
  • Hát với con tàu
  • Cây trong phố – Chờ trăng (thơ, in chung)

Các tác phẩm viết cho thiếu nhi

  • Tiếng gà trưa
  • Bầu trời trong quả trứng (thơ thiếu nhi, 1982)
  • Truyện Lưu Nguyễn (truyện thơ, 1985)
  • Mùa xuân trên cánh đồng (truyện thiếu nhi – 1981)
  • Bến tàu trong thành phố (truyện thiếu nhi, 1984)
  • Vẫn có ông trăng khác (truyện thiếu nhi, 1986)
  • Tuyển tập truyện thiếu nhi (1995).
  • Chú gấu trong vòng đu quay (tập truyện)

Thành tựu nghệ thuật

Thơ Xuân Quỳnh giàu cảm xúc với những cung bậc khác nhau như chính tính cách luôn hết mình của Xuân Quỳnh. Những bài thơ khi hạnh phúc đắm say, lúc đau khổ, suy tư của nhà thơ luôn gần gũi vì được viết với sự đằm thắm của một người phụ nữ vừa làm thơ vừa làm vợ, làm mẹ. Nhiều bài thơ của Xuân Quỳnh đã trở nên nổi tiếng như Thuyền và biển, Sóng (viết năm 1967, in trong tập Hoa dọc chiến hào năm 1968), Hoa cỏ may, Tự hát, Nói cùng anh… Các bài thơ Sóng, Truyện cổ tích về loài người (Lời ru trên mặt đất, Nhà xuất bản Tác phẩm mới, 1978) được đưa vào sách giáo khoa phổ thông của Việt nam. Nhạc sỹ Phan Huỳnh Điểu đã phổ nhạc rất thành công các bài thơ: Thuyền và biển (4/1963), Thơ tình cuối mùa thu của Xuân Quỳnh.

Nếu quý vị thấy bài viết về Nhà thơ Xuân Quỳnh hữu ích, thú vị hãy share để nhiều người được biết.