Nguyễn Quán Nho (1638-1708) là quan nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam.

Xuất thân

  • Nguyễn Quán Nho là người làng Đông Triều, xã Vãn Hà, huyện Thụy Nguyên, thuộc thừa tuyên Thanh Hóa thời Hậu Lê; sau Cách mạng tháng Tám (1945) là làng Dương Hòa, xã Thiệu Hưng, huyện Thiệu Hóa và nay thuộc tiểu khu 8, thị trấn Vạn Hà, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam.
  • Nguyễn Quán Nho sinh ngày 2 tháng 10 năm 1638 (Mậu Dần), thuộc đời thứ sáu của dòng họ Nguyễn Quán. Cha ông là Nguyễn Quán Hoàn, mất sớm khi Nguyễn Quán Nho còn nhỏ. Mẹ là Trịnh Thị Phúc quê ở làng Bồng Thượng, huyện Vĩnh Lộc.
                                                             Danh nhân Nguyễn Quán Nho

Sự nghiệp

  • Năm 1657, ông tham gia thi Hương và đỗ Hương cống.
  • Năm 1659, ông thi Hội đỗ tam trường và được tuyển vào làm việc trong triều.
  • Năm 1667 đời Lê Huyền Tông, ông đỗ đồng tiến sĩ khoa Đinh Mùi, lúc 30 tuổi.
  • Năm 1672, ông được bổ làm Đô đốc liên tỉnh Hải Dương – Yên Quảng.
  • Trong các năm từ 1674 đến 1681, ông đã bốn lần tham gia vào phái đoàn của triều đình Lê – Trịnh đi công cán sang nhà Thanh.
  • Năm 1684, ông được bổ nhiệm làm Phó đô ngự sử. Đầu năm 1691, ông được thăng làm Tả thị lang bộ Lại. Cuối năm 1692, ông được kiêm thêm chức Đô ngự sử.
  • Sang năm 1693, Nguyễn Quán Nho được thăng làm Thượng thư bộ Binh rồi cùng Thượng thư bộ Hình là Lê Hy vào phủ chúa Trịnh làm Tham tụng. Năm 1694, ông đã cùng Lê Hy dâng tờ khải xin thi hành 6 điều mà hai ông đã kiến nghị như kiểm tra lại mốc giới ruộng đất, chỉnh đốn việc xử kiện, việc khảo công quan lại… và đã được chúa Trịnh phê chuẩn thi hành. Ông ở ngôi tể tướng 5 năm, làm việc giản dị, không giấu giếm
  • Năm 1696, triều đình tổ chức thi cho các quan. Chúa Trịnh Căn triệu ông vào nghĩ đề bài và dặn giữ bí mật. Ông nói chuyện với người khác, đề thi bị lộ ra. Trịnh Căn giận dữ giáng ông xuống làm Tả thị lang bộ Binh. Sau đó Đô ngự sử Nguyễn Quý Đức cũng bị giáng chức, Trịnh Căn lại điều ông thay Quý Đức làm Đô ngự sử. Ông đảm nhận công việc Đô ngự sử trong 7 năm.
  • Năm 1702, ông được phục ngôi Tể tướng, Thượng thư bộ Lễ, coi việc tòa Trung thư, tước Hương Giang bá. Ông cùng Lê Hy làm Tể tướng, nhưng Lê Hy nghiêm khắc còn Nguyễn Quán Nho khoan dung hơn, nhiều người được nhờ cậy. Vì vậy đương thời có câu ca dao:
  • Thượng thư Lê Hy, thiên hạ sầu bi, Tể tướng Vãn Hà, thiên hạ âu ca.Sách Đại Nam quốc sử diễn ca cũng ghi:

Bởi ai thiên hạ âu ca.
Chẳng quan Tham tụng Vạn Hà là chi.

  • Năm 1707, Nguyễn Quán Nho về hưu. Ngày 12 tháng 8 năm 1708, ông qua đời, thọ 71 tuổi.

Ghi công
VĂN BIA ĐỀ DANH TIẾN SĨ KHOA ĐINH MÙI NIÊN HIỆU CẢNH TRỊ NĂM THỨ 5 (1667) TẠI BIA SỐ 44 VĂN MIẾU QUỐC TỬ GIÁM HÀ NỘI

  • Sau khi qua đời, Nguyễn Quán Nho được truy tặng là Thượng thư bộ Lại, tước quận công, đồng thời phong là phúc thần và giao cho dân địa phương thờ phụng.
  • Nhà thờ cùng với khu mộ Nguyễn Quán Nho tại thị trấn Vạn Hà đã được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia từ năm 1993. Dòng họ Nguyễn Quán cũng lưu giữ được bức họa chân dung Nguyễn Quán Nho được một họa sĩ Trung Quốc vẽ trong một lần đi sứ.

Hiện nay tại huyện Thiệu Hóa (tỉnh Thanh Hóa) có một trường trung học phổ thông mang tên Nguyễn Quán Nho.

                                              Danh nhân Nguyễn Quán Nho

Những câu chuyện lưu truyền

Học theo Mạc Đĩnh Chi

  • Nhà nghèo, cha mất sớm nhưng thuở nhỏ Nguyễn Quán Nho rất ham học. Lúc theo mẹ đi làm thuê cho nhà giàu, ông áp tai vào vách nhà để nghe lỏm lời thầy giảng và lấy que củi vạch chữ lên nền đất. Về nhà ông học bài bằng cách lấy que vạch chữ trên thân cây xương rồng, trên lá chuối. Về đêm, ông bắt đom đóm bỏ vào quả cà đã khoét ruột hoặc vỏ trứng để học bài.

Chàng Cháy

  • Nhà nghèo nên phải nấu cơm bằng nồi đất nhưng loại nồi này hay vỡ, ông phải thường xuyên mượn nồi của hàng xóm để nấu cơm. Hàng xóm thương tình nên thường để lại ít cơm cháy trong nồi khi cho mượn. Sau này dân làng gọi đùa ông là Chàng Cháy.
  • Theo sách “Kẻ chăn trâu kỳ dị” ghi chép về các bậc khoa bảng xứ Thanh, thì truyền rằng, Nguyễn Quán Nho mồ côi cha từ thuở còn thơ ấu. Hai mẹ con đùm bọc lấy nhau, gia cảnh rất ư bần hàn, phải lấy việc mò cua, bắt ốc, đan thừng làm kế mưu sinh.

     

  • Dân gian ta quan niệm, trẻ nhà khó thường khôn sớm, ứng vào trường hợp Nguyễn Quán Nho, hẳn đúng. Ấy là khi Quán Nho được 5, 6 tuổi, dù tuổi ăn chưa no, lo chưa tới, nhưng bởi nhà nghèo, nên cậu đã biết đỡ đần mẹ. Có lần vào mùa đông lạnh giá, trong nhà không còn hạt gạo nào để nấu cơm, hai mẹ con lại không đi làm được, cậu bé Nho liền sang nhà hàng xóm mượn nồi về nấu cơm, nhưng nhà còn hạt gạo nào đâu để bếp lửa có thể hồng.

     

  • Kỳ thực, Nho mượn nồi để vét lại những hạt cơm cháy thừa dưới đáy nồi cho hai mẹ con cầm cự qua cơn đói. Việc mượn nồi thỉnh thoảng diễn ra như thế, nhưng lạ nỗi là khi Nho trả nồi thì bao giờ chiếc nồi cũng sạch như chùi. Dần dà hàng xóm hiểu chuyện, thương gia cảnh mẹ con chú bé nghèo khó nên nhiều người khi cho mượn nồi cố tình để lại nhiều cơm cháy cho hai mẹ con. Sau này, dân trong vùng còn gọi ông với cái tên “chàng Cháy” là bởi thế.

     

  • Dẫu chỉ được bữa đói, bữa no, nhưng chú bé họ Nguyễn lại có chí ham học, thấy bạn bè đi học cũng muốn theo. Ngặt nỗi, nhà nghèo không có tiền thuê thầy dạy huống hồ nói đến việc có sách, bút nghiên mà luyện chữ. Bởi vậy, nhân khi mẹ đi làm thuê cho nhà giàu, Nho theo mẹ, áp tai vào vách nghe thầy giảng bài cho con chủ, lại lấy que củi vạch chữ lên nền đất theo thầy. Nhờ thông minh, lại chăm chỉ luyện rèn, Quán Nho dần quen với chữ thánh hiền.

     

  • Cách học của cậu, cũng thật kỳ khôi và sáng tạo. Bút không có, giấy cũng không, cậu dùng gai viết lên các khúc thân xương rồng, rồi sau viết trên lá chuối đóng thành xếp, nhưng lá chuối héo chữ cũng nhăn nheo không đọc được. Thế là Quán Nho viết lên các tàu lá chuối tươi khắp vườn nhà. Nhờ tinh thần ham học ấy, cậu học trò nghèo sôi kinh nấu sử không thôi.

     

  • Rồi kẻ có công, trời chẳng phụ…Khoa thi năm Đinh Mùi (1667) đời vua Lê Huyền Tông, cậu học trò lấy lá chuối làm vở, lấy que củi làm bút thuở xưa chiếm ngôi nhất bảng (khoa ấy không có tam khôi). Khi ấy, Nguyễn Quán Nho tròn 31 xuân, đúng tuổi “tam thập nhi lập”.

     

  • Danh thơm được bia đá Văn Miếu, trong “Lê triều tiến sĩ đề danh bi ký”, nơi “Văn bia đề tên tấn sĩ khoa Đinh Mùi niên hiệu Cảnh Trị thứ 5 (1667)”, tên ông rạng rỡ đầu tiên “Nguyễn Quán Nho, người xã Vãn Hà, huyện Thụy Nguyên; đỗ năm 31 tuổi”. Đỗ đạt từ đất nghèo Thiệu Hóa (khi ấy là huyện Thụy Nguyên), danh thơm họ Nguyễn xứng với lời ngợi ca trong “Thanh Hóa quan phong” về học phong của xứ này:

    “Năm chương bút trận từ lâm,

    Văn đua tài cả tên nhằm bảng cao”.

Quan trạng vớt bèo

  • Ngày Nguyễn Quán Nho vinh quy bái tổ về làng, mặc cho các quan lại hàng tổng hàng huyện chuẩn bị đón rước, mẹ ông vẫn bình thản ra ao làng vớt bèo về nuôi lợn. Khi lý trưởng mời bà về dự lễ rước quan trạng, bà nói rằng:
  • Nó thi đỗ là việc của nó sao lại phải đón rước, tôi đang bận vớt bèo!
    Nguyễn Quán Nho nghe kể lại, vội cởi áo mũ, cởi giày, xắn quần ra ao làng cầm gậy vớt đầy rổ bèo đem về nhà rồi mời mẹ ra đình làng làm lễ. Đến nay làng Dương Hòa còn lưu truyền câu ca Vinh quy bái tổ sau rổ bèo đầy.
  • Ngày tân khoa Nguyễn Quán Nho vinh quy bái tổ về làng, hàng tổng hàng huyện tấp nập kiệu cáng, cờ quạt rước xách ông. Lúc này mẹ Quán Nho biết con đã hiển vinh nhưng vẫn bình thản ra ao làng vớt bèo về nuôi lợn, lý trưởng làng Vạn Hà mời bà về dự lễ rước quan trạng cùng dân, bà gạt đi mà rằng:

     

  • Nó thi đỗ là việc của nó sao lại phải đón rước, tôi đang bận vớt bèo!

     

  • Quan nghè Nguyễn Quán Nho nghe kể lại vội vàng xuống khỏi võng đièu, cởi áo gấm, phẩm phục, xắn quần chạy ra ao làng cầm gậy gom bèo lại vớt bèo cùng mẹ cho đến khi đầy rổ hai mẹ con mới về dự tiệc cùng làng. Về sau ca dao xứ Thanh có câu thành ngữ lưu truyền việc này: “Vinh quy bái tổ sau rổ bèo đầy”.

     

  • Sau khi làm lễ vinh quy bái tổ, Nguyễn Quán Nho làm quan ở Ninh Bình, công việc bận bịu ông không về thăm mẹ được nên gom góp tiền bổng lộc sắm cho mẹ già chiếc áo lụa nhân dịp Tết, sai lính đem về. Mẹ ông giở ra thấy tấm áo cả đời khó nhọc bà chưa từng được mặc, nhưng bà tỏ ra không vui vì nghĩ đây là của bất chính, bà bảo “Bổng lộc của quan là dầu mỡ của dân hay sao”. Nói rồi bà đốt tấm áo, gói nắm tro gửi lại cho quan nghè. Mở gói quà chỉ còn nắm tro, Quán Nho hiểu thâm ý của mẹ rằng làm quan phải sống thanh liêm, không được bòn rút đục khoét của dân lành. Suốt đời ông thực hiện đúng lời mẹ dặn.

Đùm tro áo lụa

  • Nguyễn Quán Nho trong thời làm quan ở Ninh Bình, vì việc công bận bịu không về thăm mẹ được nên nhân ngày Tết mới gom góp tiền bổng lộc sắm cho mẹ già chiếc áo lụa và sai lính đem về. Mẹ ông giở ra thấy tấm áo quý chưa từng được mặc, nhưng lại tỏ ra không vui vì nghĩ đây là của bất chính. Bà nói Bổng lộc của quan là dầu mỡ của dân hay sao, rồi bà đốt tấm áo, gói nắm tro gửi lại cho quan nghè. Khi mở ra, Quán Nho hiểu thâm ý của mẹ, suốt đời ông đã sống thanh liêm, không bòn rút của dân lành.

Khi ông mất, dân quê ông khóc thương ông:

Chàng về Vạn Vạcchàng ơi.
Con chàng bỏ đói ai nuôi cho chàng.